Đánh giá kết quả phương pháp đặt ống silicon một lệ quản điều trị đứt lệ quản do chấn thương

 

  

TÓM TẮT

Mục đích: Đánh giá kết quả phương pháp đặt ống silicon một lệ quản và nhận xét đặc điểm kỹ thuật của phương pháp cố định ống silicon một lệ quản có cải biên.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 73 bệnh nhân (BN) với 76 lệ quản (LQ) đứt do chấn thương vì nhiều nguyên nhân khác nhau được điều trị nội trú tại khoa chấn thương Bệnh viện Mắt trung ương từ 10/06 đến 05/07. Kỹ thuật áp dụng là đặt ống silicon một LQ và cố định ống silicon bằng nơ chỉ 9/0  cải biên từ phương pháp nguyên bản của Garber.

Kết quả: Phẫu thuật đạt kết quả khả quan. Tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng sau phẫu thuật tỷ lệ thành công về giải phẫu là 92,1%, tỷ lệ thành công về chức năng là 94,5%, tỷ lệ thành công về thẩm mỹ là 98,7%, đưa tỷ lệ thành công chung lên 94,5%.

Biến chứng sau phẫu thuật: Tỷ lệ mất ống giảm còn 6,5%, các biến chứng khác ít gặp, không gây nguy hiểm và có thể khắc phục dễ dàng.

Từ khoá: Đặt ống silicon một lệ quản.

 

 

 

     I.              

ĐẶT VẤN ĐỀ  

Chấn thương LQ là một cấp cứu nhãn khoa thường gặp cần được xử trí đúng, kịp thời tránh hậu quả tắc lệ đạo gây chảy nước mắt và biến dạng góc trong ảnh hưởng thẩm mỹ. Các phương pháp điều trị phục hồi luôn được nghiên cứu, cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả điều trị .

Nhiều tác giả đã tiến hành những nghiên cứu khác nhau và đưa ra nguyên tắc cơ bản của phẫu thuật là khâu nối tận – tận hai đầu LQ đứt phối hợp đặt một ống trong lòng LQ. Silicon là chất liệu tốt nhất làm ống dẫn. LQ đứt cần được tái tạo và khi nối một LQ không được làm tổn thương LQ lành cùng bên. Đây là cơ sở của phương pháp đặt ống silicon một LQ. Ở nước ta từ năm 2005, phương pháp này được áp dụng nhưng chưa phổ biến vì chưa được đánh giá cụ thể. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá kết quả của phương pháp đặt ống silicon một LQ và nhận xét đặc điểm kỹ thuật của phương pháp cố định ống silicon có cải biên .

  II.              

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn

73 BN (76 mắt) đứt LQ được điều trị nội trú tại khoa Chấn thương Bệnh viện Mắt TƯ từ tháng 10/2006 đến tháng 05/2007. Các BN có chỉ định phẫu thuật: BN đứt LQ ở 1/3 ngoài và 1/3 giữa, đủ sức khỏe để tham gia phẫu thuật và đồng ý  tham gia nghiên cứu.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

BN đa chấn thương quá nặng không thể tham gia phẫu thuật nối LQ. BN có tiền sử khô mắt, có tổn thương bán phần trước gây chảy nước mắt hoặc những bệnh lý khác gây chảy nước mắt như quặm, viêm loét giác mạc, tăng nhãn áp …

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương tiện nghiên cứu

- Máy ảnh kỹ thuật số có khả năng chụp gần ở cự ly 5 cm và những dụng cụ khám thông dụng (bảng thị lực, máy soi đáy mắt, sinh hiển vi khám bệnh).

- Máy sinh hiển vi phẫu thuật.

- Bộ dụng cụ vi phẫu phục vụ cho phẫu thuật nối LQ gồm những dụng cụ thông thường và một số dụng cụ chuyên dụng phục vụ phẫu thuật như que nong điểm lệ, kéo Vannas, panh giác mạc, ống silicon đường kính 0,64 mm, móc đôi vi phẫu, chỉ 9/0; 6/0; 7/0.

2.2.2. Chuẩn bị bệnh nhân

- Đánh giá tình trạng toàn thân nhằm phát hiện những tổn thương hoặc bệnh lý toàn thân ảnh hưởng phẫu thuật. Thử thị lực và tìm những tổn thương phối hợp nếu có để xử trí toàn diện. Làm các xét nghiệm cấp cứu cần thiết và đề ra chỉ định phẫu thuật.

2.2.3. Kỹ thuật phẫu thuật

- Gây tê tại chỗ và phong bế thần kinh trên–dưới hốc mắt bằng dung dịch Xylocain 2%. Gây mê với trẻ em hoặc  người lớn hợp tác kém. Gây tê bề mặt nhãn cầu bằng dung dịch Dicain 1%. Rửa sạch và sát trùng vết thương bằng dung dịch Betadin 5%. Lấy dị vật và cắt lọc tổ chức hoại tử nếu cần thiết.

- Tiến hành phẫu thuật theo 3 bước:

+ Tìm 2 đầu LQ đứt: Dùng móc đôi bộc lộ vết thương, có thể tra dung dịch Dicain 2% pha Adrenalin nhằm cầm máu, co mạch, co cơ làm bộc lộ rõ đầu LQ đứt.

+ Đặt ống dẫn vào lòng LQ và cố định ống: Luồn ống silicon đã chuẩn bị sẵn (dài 3 cm, cắt vát một đầu, cắt một phần thiết diện ống cách đầu vát 2 mm, buộc chỉ 9/0 để nguyên cả 2 kim vào ống tại vị trí đã cắt) qua lỗ lệ  - đầu đứt ngoài – đầu đứt trong – phần lệ quản trong và túi lệ. Cố định đầu ngoài ống (Đưa 2 kim 9/0 qua lỗ lệ xuyên qua chiều dầy 1/3 mi đến da mi và thoát ra tại  điểm cách bờ mi 2 mm. Buộc 2 đầu chỉ 9/0 ngoài da mi với đuôi chỉ 9/0 ở phần LQ đứng thoát ra tại lỗ lệ).

+ Nối niêm mạc hai đầu LQ đứt và khâu phục hồi mi theo đúng mốc giải phẫu: Đặt 2 mũi chỉ 7/0 hình chữ U quanh hai đầu LQ đứt. Đặt các mũi 6/0 hoặc 5/0 khâu phục hồi cơ vòng cung mi. Khâu kết mạc và da mi vùng góc mắt trong bằng chỉ 7/0. Các tổn thương mi khác khâu 3 lớp theo đúng mốc giải phẫu.

2.2.4. Theo dõi sau mổ

BN đứt LQ đơn thuần được điều trị nội trú 2 ngày. Thời gian theo dõi kéo dài 6 tháng và chia làm 3 giai đoạn.

+ Tuần đầu sau mổ: phát hiện biến chứng sớm nếu có và xử lý. Cắt chỉ khâu da.

+ 3 tháng sau mổ: cắt chỉ cố định và tháo ống silicon, nhận xét tình trạng giải phẫu, chức năng lệ đạo và thẩm mỹ sẹo mi.

+ 6 tháng sau mổ: đánh giá tình trạng giải phẫu, chức năng lệ đạo và thẩm mỹ sẹo mi.

2.2.5. Đánh giá kết quả

+ Kết quả giải phẫu: dựa vào kết quả bơm thông lệ đạo. Thành công nếu nước thoát xuống miệng tốt. Thất bại nếu nước trào tại chỗ.

+ Kết quả chức năng: dựa vào triệu chứng chảy nước mắt:

Tốt: không chảy nước mắt.

Đạt yêu cầu: khi chỉ chảy nước mắt trong điều kiện chế tiết nước mắt phản xạ (khi ra nắng, gió)

Không đạt yêu cầu: khi chảy nước mắt liên tục.

+ Kết quả thẩm mỹ: dựa vào tình trạng phục hồi giải phẫu góc mắt trong, bờ tự do của mi, điểm lệ.

Đạt yêu cầu khi góc mắt trong phục hồi đúng giải phẫu, bờ tự do và điểm lệ tiếp xúc tốt với kết mạc nhãn cầu vùng hồ lệ.

Không đạt yêu cầu khi góc mắt trong phục hồi không đúng giải phẫu và bị sẹo co kéo gây biến dạng, bờ tự do và điểm lệ không tiếp xúc tốt với kết mạc nhãn cầu vùng điểm lệ.

+ Đánh giá kết quả chung: dựa vào kết quả phục hồi giải phẫu, chức năng và thẩm mỹ:

Tốt: giải phẫu lệ đạo thông, chức năng tốt và thẩm mỹ đẹp.

Trung bình: giải phẫu lệ đạo thông hoặc tắc, chức năng đạt yêu cầu, thẩm mỹ đẹp.

Kém: giải phẫu tắc, chức năng không đạt yêu cầu, thẩm mỹ xấu.

 

III.              

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm BN trước phẫu thuật

Tổng số 73 BN (76 LQ) với tỷ lệ 52 nam/21 nữ. Đa số BN ở độ tuổi lao động, tuổi trung bình 31,6 ± 17,4 và chủ yếu là lao động phổ thông (53,4%). Nguyên nhân chính gây chấn thương ở người lớn là tai nạn giao thông (39 ca– 53,4 %) và ở trẻ em là chó cắn (7 ca- 9%). Tỷ lệ chấn thương MP/ MT là 38 ca (52,1%)/ 35 ca (47,9 5%). Chủ yếu BN đứt 1 LQ dưới có 67 ca (92%), số BN đứt 1 LQ trên là 3 ca (4%) và số BN đứt cả 2 LQ chỉ có 3 ca (4%). Về vị trí đứt LQ, số BN đứt 1/3 giữa là 56 ca (73,7%) và số BN đứt 1/3 ngoài là 20 ca (26,3%). Số BN đứt LQ đơn thuần là 19 ca (26,1%), các tổn thương kèm theo như vết thương mi phối hợp 35 ca (47,9%), vết thương nhãn cầu phối hợp 13 ca (17,8%), chấn thương hốc mắt 4 ca (5,5%), chấn thương sọ não 2 ca (2,7%).

Về xử trí ban đầu sau chấn thương, đa số BN được băng ép cầm máu (58 ca-79,5%), BN được khâu mi không nối LQ 15 ca (20,5%). Số BN đến trước 6 ngày sau chấn thương chiếm 68 ca (93,1%). Thời gian điều trị nội trú trung bình là 2,1 ± 1,6 ngày.

3.2. Kết quả giải phẫu

Tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật, cắt chỉ rút ống silicon và bơm thăm dò LQ cho kết quả thông 70 ca (92,1%), tắc nghẽn 6 ca (7,9%).

3.3. Kết quả chức năng

Tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng sau phẫu thuật, dựa vào triệu chứng chảy nước mắt thấy số BN kết quả tốt 67 ca (91,8%), đạt yêu cầu 2 ca (2,7%) và số BN không đạt yêu cầu 4 ca (5,5%).

3.4. Kết quả thẩm mỹ

Tại cả 3 thời điểm theo dõi, số BN đạt yêu cầu là 75 ca (98,7%), chỉ 1 LQ bị sẹo co kéo gây trễ mi và biến dạng mi (1,3%).

3.5. Kết quả chung

Tại cả 3 thời điểm theo dõi, kết hợp kết quả giải phẫu – chức năng – thẩm mỹ có kết quả chung  là tốt 67 ca (91,8%), trung bình 2 ca (2,7%) và kém 4 ca (5,5%).

3.6. Biến chứng phẫu thuật

 Trong phẫu thuật không gặp biến chứng. Sau phẫu thuật biến chứng hay gặp là kích thích kết giác mạc do đầu silicon dài quệt vào (6 ca– 9,7%), biến chứng rơi mất ống silicon gặp ở 5 ca (8,1%), các biến chứng khác như tăng sinh tổ chức hạt, rách điểm lệ, lỗ rò ít gặp.   

 

IV.              

BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu

Một đặc trưng của đứt LQ do chấn thương được thấy trong hầu hết các nghiên cứu là tuổi BN còn trẻ, tuổi trung bình 31,6 ± 17,4. Nam hay gặp hơn nữ và thường làm công việc lao động phổ thông do nam giới thường tham gia các công việc nặng nhọc và hay có những hành vi bạo lực hơn nữ giới. Trẻ em nam cũng hiếu động hơn trẻ em nữ, lao động phổ thông là những đối tượng dễ bị phơi nhiễm với những yếu tố nguy cơ gây chấn thương. Các đặc điểm này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác như Vương Văn Quý [7].

Về nguyên nhân gây chấn thương, tai nạn giao thông mà chủ yếu là tai nạn xe máy. Khi bị ngã xe máy ,theo quán tính người lao về phía trước, gò má tiếp xúc với mặt đường và bờ mi bị kéo căng về phía dưới ngoài gây đứt LQ. Đặc điểm này tương đồng với kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước [7] song không  tương đồng với kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài do ở nước ngoài phương tiện giao thông chủ yếu là xe ô tô và tỷ lệ tai nạn giao thông ngày càng giảm. Tỷ lệ BN đứt LQ dưới chiếm 92,1% và vị trí đứt ở 1/3 giữa chiếm 73,7% trong nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của đa số các tác giả trong nước và được lý giải do lệ quản trên được bảo vệ bởi bờ trên xương hốc mắt, khi bờ mi bị kéo căng về phía dưới ngoài lực căng thường tác động vào 1/3 giữa và 1/3 trong gây đứt LQ tại đây.

4.2. Phương pháp và kết quả phẫu thuật

Phương pháp phẫu thuật nối LQ đặt ống silicon một LQ đã được nhiều tác giả áp dụng trên lâm sàng với nhiều kỹ thuật cố định ống khác nhau. Phương pháp này có ưu điểm về kỹ thuật là chỉ thao tác trên LQ đứt nên không gây tác động bất lợi tới LQ lành cùng bên. Song nguyên nhân chính gây thất bại phẫu thuật là mất ống dẫn trước thời hạn do không được cố định tốt. Tỷ lệ mất ống trong ngiên cứu của Vương Văn Quí [7] là 62,5%, trong ngiên cứu của Kenedy R/H (1990) là 73,9%. Với mục đích hạn chế phạm vi can thiệp phẫu thuật, bảo vệ LQ lành cùng bên, duy trì ống dẫn silicon tốt chúng tôi đã cải tiến kỹ thuật cố định ống từ phương pháp nguyên bản của Garber. Trong nghiên cứu nguyên bản của Garber, đầu ngoài ống silicon uốn thành hình móc câu xuống dưới điểm lệ 5 mm, chỉ cố định xuyên từ kết mạc qua bề dày mi dưới cố định ống silicon vào da mi vùng điểm lệ. Với đầu ngoài ống silicon dài như vậy, rất dễ bị va quệt làm tuột ống nhất là với BN trẻ em. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ống silicon được tạo dáng và cố định một đầu ống bằng chỉ 9/0, đầu ngoài ống silicon sát điểm lệ, 2 kim 9/0 xuyên qua lỗ lệ- thành ống silicon– chiều dày 1/3 mi (từ LQ đến da mi) và thoát ra tại điểm cách bờ mi 2 mm, 2 đầu chỉ 9/0 ngoài da mi được buộc với đuôi chỉ 9/0 nằm ở phần LQ đứng thoát ra tại lỗ lệ để cố định đầu ngoài ống silicon vào bờ mi ngay sát điểm lệ. Với cách cố định mới này ống silicon được giữ tốt trong lòng LQ đứt nhờ được đặt như nằm trong khuôn đúc là thành LQ. Nhược điểm chính của phương pháp đã được khắc phục, tỷ lệ mất ống giảm còn 6,58%. Ưu điểm của phương pháp đã được khẳng định: ống dẫn cố định tốt, việc đặt ống không gây tổn thương LQ lành, rút ngắn thời gian phẫu thuật, giảm chi phí, không đòi hỏi dụng cụ chuyên dụng và quan trọng nhất là cho kết quả tốt.

Tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng sau phẫu thuật, tỷ lệ BN đạt kết quả tốt là 91,8%, đạt kết quả trung bình là 2,7%, đạt kết quả kém là 5,5% đưa tỷ lệ thành công chung của phẫu thuật lên 94,5%.   

4.3. Biến chứng của phẫu thuật

Phần lớn các biến chứng có liên quan đến ống silicon như: rách điểm lệ, kích thích kết giác mạc, tăng sinh tổ chức hạt, mất ống silicon, dò LQ kết mạc, sẹo co kéo biến dạng mi. Nhìn chung các biến chứng này không nguy hiểm và dễ khắc phục như cắt bớt đầu ống silicon, cắt tổ chức hạt tăng sinh sau đó đốt điện hoặc đốt nhiệt phối hợp tra thuốc kháng sinh pha corticoid tại chỗ, đóng lỗ dò LQ– kết mạc, tiến hành phẫu thuật tạo hình lại mi sau 6 tháng khi quá trình làm sẹo đã ổn địn hoàn toàn.

 

  V.              

KẾT LUẬN

Phẫu thuật đặt ống silicon một LQ điều trị đứt LQ do chấn thương mới được áp dụng ở Việt nam nhưng đã đạt kết quả khả quan. So với phương pháp đặt ống silicon 2 LQ phương pháp này không tác động đến LQ lành cùng bên nên bảo vệ được khả năng dẫn lưu nước mắt trong điều kiện tiết nước mắt cơ bản. Với cải tiến trong kỹ thuật cố định ống silicon từ phương pháp nguyên bản của Garber đã khắc phục nhược điểm chính của phẫu thuật, tỷ lệ mất ống giảm còn 6,5%. Kết quả phẫu thuật rất khả quan, tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng sau phẫu thuật tỷ lệ thành công về giải phẫu là 92,1%, tỷ lệ thành công về chức năng là 94,5%, tỷ lệ thành công về thẩm mỹ là 98,7% đưa tỷ lệ thành công chung lên 94,5%. Các tai biến sau phẫu thuật ít gặp, không nguy hiểm và có thể khắc phục dễ dàng mà không gây ảnh hưởng đến kết quả điều trị. 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     

NGUYỄN THỊ ĐỢI (2001), “Kết quả phẫu thuật phục hồi lệ quản chấn thương – So sánh hai phương pháp đặt chỉ và đặt ống si-li-côn”, Nội san nhãn khoa, 4, tr.44-49

2.     

VŨ ANH LÊ VÀ CS (2002), “Đánh giá kết quả bước đầu phục hồi mi mắt lệ quản chấn thương với ống si-li-côn”, Y học thành phố Hồ Chí Minh– chuyên đề nhãn khoa, 6 (4), tr.30-36

3.     

TÔ THỊ OANH VÀ CS (1999), “Lợi ích và chỉ định đặt ống si-li-côn trong điều trị tắc lệ đạo”, Nội san nhãn khoa, (2), tr.57-61

4.     

VƯƠNG VĂN QUÝ, NGUYỄN THỊ ĐỢI, TRẦN NGUYỆT THANH (2004), “Đứt lệ quản do chấn thương: đặc điểm lâm sàng, thái độ xử trí và kết quả điều trị”, Tạp chí nhãn khoa Việt Nam, (2), tr.9-17

5.     

VƯƠNG VĂN QUÝ(2004), “Cải tiến kỹ thuật cố định ống si-li-côn trong phẫu thuật nối lệ quản”, Tạp chí nhãn khoa Việt Nam, (2), tr.18-25

6.     

VƯƠNG VĂN QUÝ(2005), “Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật phục hồi lệ quản đứt do chấn thương bằng ống si-li-côn”, Luận án Tiến sỹ Y học

7.     

VƯƠNG VĂN QUÝ(2006), “Khắc phục biến chứng thụt ống trong kỹ thuật đặt ống si-li-côn một lệ quản”, Kỷ yếu Hội nghị phòng chống mù lòa và khoa học kỹ thuật nhãn khoa toàn quốc 2005-2006, tr.119

  1. FAYET B. (1998), “Monocanalicular nasolacrinal duct intubation-letter”, Ophthalmol, 105(10), pp.120-130
  2. GARBER P.F. (1984), “Management of injuries to the lacrimal system”, Advances In Ophthalmol. Plast. Reconstr. Surg., 3 pp.175-195

 

SUMMARY

SINGLE CANALICULAR SILICONE TUBE INTUBATION FIXING TEAR DUCT LACERATION : A SERIE CASE STUDY

Eyelid margin laceration involving the canaliculus is a common eye trauma and canalicular laceration should be repaired. Many methods and variety of materials have been applied and silicon tube intubaton and single canalicular repair became the best method of choice. When the latter is used, the opposing canaliculus is not violated. Additionally, short operation time, simple technique, low cost are met and the complication is rare.

Methods: 73 patients with 76 eyelid laceration in trauma department, National Institute of Ophthalmology were reviewed. The procedure were carried by one surgeon. The mean follow up time was 12 months.

Results: All patients had good anatomic result (92,1%), lacrimal function (94,5%), cosmetic outcome (98,7%). Complications were rarely found. Techniques were reported single and harmless.

Conclusions: The technique can be a procedure of choice in dealing with tear duct trauma.

 

Key words: single canalicular silicone tube.